Năm 1943 Chiến_tranh_nhân_dân_giải_phóng_Nam_Tư

Hình lá cờ của Lữ đoàn du kích số 1 Macedonia

Thất bại cùng lúc của quân đội Đức Quốc xã tại Stalingrad (Liên Xô) và El Alemein (Bắc Phi) đã cổ vũ mạnh mẽ cho phong trào du kích chống phát xít ở Nam Tư. Ba khu giải phóng lớn ở Bosnia, Macedonia, Montenegro và tỉnh Vojvodina đang đe dọa biến Nam Tư thành một phong trào kháng chiến lớn nhất ở Đông Âu, uy hiếp hậu phương của quân Đức tại mặt trận phía đông. Theo chân Quân giải phóng nhân dân Nam Tư, những người kháng chiến ở Macedonia cũng lập ra Quân Giải phóng nhân dân Macedonia (NOVM) mà Lữ đoàn đầu tiên của nó ra đời vào ngày 15 tháng 2 năm 1943 do Tihomir Šarevski chỉ huy và Đora Damevski làm chính ủy với quân số trên 500 người gồm Tiểu đoàn du kích Kicevski-Debar, Tiểu đoàn du kích Jane Sandanski, các đội du kích Veleski và Kosturski. Từ năm 1943, Quân giải phóng nhân dân Nam Tư bắt đầu tiếp nhận ngày càng nhiều vũ khí, đạn dược của cả Liên Xô, Anh, Mỹ chở đến bằng đường biển hoặc thả dù bằng máy bay tầm xa. Bên cạnh quân đội chính quy, các đội du kích tiếp tục phát triển trên khắp lãnh thổ Nam Tư và mở rộng ảnh hưởng sang cả những nước láng giềng như Bulgaria, Hy Lạp và Albania. Đất đai Nam Tư thực sự bùng cháy dưới chân quân chiếm đóng Đức Quốc xã và các đồng minh của nó.[20]

Cuộc tấn công thứ tư của Liên quân Đức - Ý - Ustaše - Chetnick

Các cuộc tấn công của các Sư đoàn Vô sản 1, 2 và Sư đoàn xung kích 3 ra tuyến sông Neretva, tháng 2 năm 1943
Bài chi tiết: Trận Neretva

Tháng 1 năm 1943, Hitler ra lệnh cho tướng Alexander von Leer, Tư lệnh Cụm tập đoàn quân E đóng tại Nam Tư và tướng Rudolf Liters, chỉ huy cụm quân Đức và Ustaše tại Croatia phải thanh toán bằng được phong trào du kích ở Nam Tư trước khi mùa hè đến. Bộ chỉ huy Đức tại Nam Tư đã vạch ra kế hoạch Fall Weiss gồm 3 giai đoạn:[53]

  • Giai đoạn 1 (Weiss I): tấn công các vùng lãnh thổ do du kích Nam Tư kiểm soát tại Croatia, Nam Sava và Tây Bosnia, trong đó có Bihac.
  • Giai đoạn 2 (Weiss II): Tấn công các khu giải phóng tại Drvar và Neretva.
  • Giai đoạn 3 (Weiss III): Tảo thanh triệt để các khu du kích và giải giới lực lượng Chetnick.

Tướng Alexander von Leer huy động vào chiến dịch này 90.000 quân gồm 50.000 quân Đức của Sư đoàn 7 SS "Prinz Eugen", Sư đoàn lê dương 369, các sư đoàn bộ binh 187, 714, 717; 25.000 quân Ý gồm các sư đoàn Sassari, Lombardy, Bergamo và Murdo; 12.000 quân cảnh vệ quốc gia Ustaše thuộc Quân đoàn 27 và khoảng 3.000 quân Chetnick. Quân Đức và đồng minh của Đức có hơn 100 xe tăng, được sự yểm hộ của 150 máy bay các loại. Chống lại 9 sư đoàn Đức - Ý và 2 sư đoàn Ustaše là 42.000 quân du kích Nam Tư gồm Quân đoàn du kích Croatia gồm các sư đoàn 6, 7, 8 và Sư đoàn Nanijska Kordunaška có khoảng 16.000 người; Quân đoàn du kích Bosnia gồm các sư đoàn Krajina 1 và 2 có khoảng 11.500 người; Cụm tác chiến cận vệ gồm các sư đoàn Vô Sản 1, 2 và Sư đoàn xung kích 3 có khoảng 14.000 người; các đội du kích nhỏ ở Slavonia có khoảng 500 người.[54]

Các cuộc tấn công của liên quân Đức - Ý - Utashi

Hệ thống trinh sát của Quân giải phóng nhân dân Nam Tư đã phát hiện được kế hoạch tấn công của liên quân Đức - Ý - Ustaše và Bộ Tổng tư lệnh NOVJ ở Bihac quyết định "ra tay trước" để nắm quyền chủ động. Ngày 15 tháng 2 năm 1943, Quân Giải phóng nhân dân Nam Tư phát động cuộc tấn công Prozor đánh vào hậu cứ của các sư đoàn Ý đang tập trung tại phía bắc Mostar. Thành phố Prozor được ba tiểu đoàn của Trung đoàn 259 (Ý) có hơn 800 quân bảo vệ. 22 giờ ngày 15 tháng 2, Sư đoàn xung kích 3 sử dụng cả ba lữ đoàn: Dalmatia 1, Montenegro 5 và Herzegovina 10 tấn công từ phía tây, phía bắc và phía đông Prozor. Ban đầu, cuộc tấn công diễn ra thuận lợi, Lữ đoàn Dalmatia 1 đã chiếm được các dãy phố đầu tiên và các kho nhiên liệu. Tuy nhiên, trước khi trời sáng, pháo binh Ý đã phát hiện đội hình quân du kích và bắt đầu bắn chặn kịch liệt, yểm hộ cho bộ binh phản xung phong, Quân du kích Nam Tư buộc phải tạm dừng tấn công và rút ra khỏi thành phố.

Lúc 23 giờ ngày 16 tháng 2, NOVJ sử dụng Sư đoàn Xung kích 3 được tăng cường 2 tiểu đoàn của Lữ đoàn Kraijna 3 và 7 khẩu lựu pháo tiếp tục tấn công vào Prozor. Đến 1 giờ sáng, Lữ đoàn Herzegovina 10 phối hợp với Lữ đoàn Montenegro 5 đã làm chủ trung tâm thành phố. Quân Ý hoảng loạn tháo chạy và bị quân của Lữ đoàn Dalmatia 1 và Lữ đoàn Kraijna 3 truy kích về Mostar. Du kích Nam Tư tiêu diệt 220 quân Ý, bắt 280 tù binh, thu 5 xe tăng hạng nhẹ, 4 lựu pháo, 2 pháo nòng dài, 4 súng cối, 12 đại liên, 25 trung liên, 10 xe tải, 1 xe kéo, hơn 500 súng trường và nhiều quân trang, quân dụng. Các đơn vị của Sư đoàn Xung kích 3 có 23 du kích thiệt mạng, 78 ngươi bị thương. Một số bị thương nặng sau đó đã chết. Trận tấn công Prozor thành công đã tạo ra một cửa mở để quân du kích Nam Tư tại khu giải phóng Bihac có thể tiếp cận thung lũng sông Neretva từ Mostar đến Konjic. Phát huy chiến quả của Sư đoàn Xung kích 3, Sư đoàn Vô Sản 2 đã mở cuộc tấn công từ Imotsky ra tuyến sông Neretva ở giữa Mostar và Jablanica, Sư đoàn Vô Sản 1 cũng từ Banja Luka tiến ra làm chủ con đường giao thông từ Sarajevo đi Konjic và bảo vệ mặt bắc của chiến dịch. Cuộc tấn công "ra tay trước" của NOVJ đã buộc Sư đoàn 714 (Đức) phải tổ chức phòng thủ. Kế hoạch giai đoạn 1 của Chiến dịch Weiss bị phá sản. Tuy nhiên, tướng Alexander von Leer vẫn quyết định thực hiện giai đoạn 2 của chiến dịch.[55]

Cuộc phản công ngược chiều của NOVJ

Ngày 20 tháng 2, liên quân Đức - Ý - Ustaše chia làm ba hướng tấn công vào vùng núi Dinaja. Từ phía bắc, các Sư đoàn 717, 718 (Đức) và Lữ đoàn 5 (Ustaše) tấn công theo hướng Bugojno - Livno. Từ phía nam, Sư đoàn 7 SS "Prinz Eugen" và Sư đoàn lê dương 369 tấn công theo hướng Drvar - Glamoc - Livno. Từ phía tây, Quân phát xít Ý sử dụng 2 sư đoàn sơn chiến của các quân đoàn 6 và 18 tấn công lên Livno. Mục tiêu tối hậu của quân Đức là bao vây, tiêu diệt chủ lực NOVJ ở Livno. Mặt trận phía bắc của Sư đoàn Vô Sản 1 (Nam Tư) gặp khó khăn lớn. Ngày 22 tháng 2, quân Đức phá vỡ chiến tuyến của sư đoàn này, đánh chiếm Konjic và đến 26 tháng 2, Sư đoàn Vô Sản 1 buộc phải rút lên các sườn núi phía nam Sarajevo. Cánh quân chủ lực của NOVJ ở giữa mặt trận gồm Sư đoàn Krajina 5 và Sư đoàn Herzegovia 10 bị hở sườn trái và bị Sư đoàn 7 SS cùng Sư đoàn lê dương 369 (Đức) tấn công. Ngày 4 tháng 3, quân Đức chiếm Glamoc và xông đến Livno. Ngày 5 tháng 3, quân Ý và quân Chetnick bao vây Imotsky.[53]

Cây cầu qua sông Neretva gần Jablanica bị phá sập. (Ảnh từ phim phục dựng trận đánh)

Vào thời điểm cực kỳ nghiêm trọng của chiến dịch, Tổng tư lệnh Josip Broz Tito đã có một quyết định quan trọng liên quan đến sự tồn vong của chủ lực Quân Giải phóng nhân dân Nam Tư, nòng cốt của phong trào kháng chiến chống phát xít ở Nam Tư. Ngày 4 tháng 3 năm 1943, ông yêu cầu hủy bỏ cuộc tấn công trên hướng Konjic và tổ chức phản công theo hướng ngược lại. Ngày 5 tháng 3, quân du kích phá nổ các cây cầu qua sông Neretva, trong đó có cây cầu đường sắt gần Jablanica, loại trừ một phần nguy cơ bị quân Ý và quân Chetnick tấn công từ hướng Nam. Ngày 6 tháng 3, các Sư đoàn Vô Sản 1 và 2, Sư đoàn Herzegovina 10 chuyển hướng tấn công vào Gornji Vakuf và Prozor Vakuf, đánh vào hậu cứ của các sư đoàn bộ binh 717, 718 và Lữ đoàn Ustaše 5 đã tấn công Livno từ phía đông. Cuộc phản công ngược chiều này buộc các sư đoàn Đức phải bỏ mục tiêu tấn công Livno từ phía đông để quay ra đối phó với ba sư đoàn du kích tại Prozor Vakuf. Ngày 8 tháng 3, quân Chetnick khôi phục lại được cây cầu Jablanica nhưng chỉ bảo đảm bộ binh qua được. Hơn 2.000 quân Chetnick qua cầu tấn công lên Jablanica. Ngày 9 tháng 3, Josip Broz Tito điều Sư đoàn Banjiska 7 do Ljuba Vuckovic chỉ huy bỏ Imosky quay về chặn đánh liên quân Ý - Chetnick ở phía bắc Mostar. Sư đoàn Vô Sản 2 lại được điều ngược trở lại phía nam, phối hợp với Sư đoàn Banjiska 7 và Lữ đoàn 9 chiếm lại Jablanica.[56]

Trong các ngày từ 15 đến 28 tháng 3, được tăng cường tiểu đoàn xe tăng hạng nhẹ từ lực lượng dự bị của Tổng hành dinh NOVJ, Sư đoàn Dalmatia 9 và Sư đoàn Krajina 10 (NOVJ) mới thành lập đã đánh bại các lực lượng Chetnick, đánh chiếm Kalinovik ở phía bắc và Nevesinje ở phía nam sông Neretva. Quân Chetnick chỉ còn lại vài trăm người vội vã rút lui về tuyến sông Drina trong sự truy đuổi của Sư đoàn Xung kích 3 (NOVJ). Ngày 7 tháng 4, quân Chetnick tiếp tục bại trận trên sông Drina. Không có quân Chetnick trợ lực trong khi bản thân cũng bị thiệt hại, các sư đoàn Lombardy và Murdo (Ý) buộc phải ngừng tấn công. Quân Ý mất thêm hơn 1.000 người chết và bị thương, 5 khẩu pháo, 2 xe tăng hạng nhẹ, một ô tô, 23 mô tô, 3 súng cối và 754 viên đạn bị quân NOVJ thu giữ. Ở phía bắc, Sư đoàn Vô Sản 1, Sư đoàn Banijska 7 và Sư đoàn Herzegovina 10 đã giữ vững phòng tuyến phía đông và phía bắc Livno. Trong báo cáo gửi Tổng hành dinh OKH ngày 1 tháng 4 năm 1943, tướng Alexander von Leer cho rằng mặc dù thông thạo không gian, địa hình nhưng lại thiếu hiểu biết về các kiến thức quân sự tối thiểu nên Dragoljub Mihailovich trở thành nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thất bại của lực lượng Chetnick.[57]

Cuộc tấn công thứ năm của Liên quân Đức - Ý

Bài chi tiết: Trận Sutjeska
Bản đồ chiến dịch "Schwarz"

Thất bại trong giai đoạn II buộc tướng Alexander von Leer phải hủy bỏ giai đoạn III của Chiến dịch Weiss và lập một kế hoạch mới để tiếp tục thanh toán phong trào du kích ở Nam Tư và NOVJ. Lần này, nó được đặt tên mã là "Chiến dịch Schwarz". Nhận thức được tầm quan trọng của chiến dịch, Quân đội Đức Quốc xã đã huy động vào chiến dịch này 120.000 quân gồm có:[58]

  • Quân đội Đức Quốc xã: Sư đoàn bộ binh sơn chiến 1, Sư đoàn bộ binh 7 SS "Prinz Eugen", các sư đoàn bộ binh nhẹ 104 và 118, Sư đoàn lê dương 369, Sư đoàn bộ binh 4 "Brandenburg", Trung đoàn xe tăng 202, Tiểu đoàn công binh 659.
  • Quân đội Phát xít Ý: Các sư đoàn bộ binh "Taurinenzi", "Ferrari" và "Venice".
  • Quân Ustaše: Quân đoàn bộ binh 4, Trung đoàn Cảnh sát Croatia.
  • Quân Bulgaria:Trung đoàn cơ giới 61, Trung đoàn hỗn hợp 63, đặt dưới quyền chỉ huy của Sư đoàn lê dương 369 (Đức)

Chống lại cụm quân đông đảo này chỉ có 22.000 quân giải phóng nhân dân Nam Tư thuộc gồm:[59]

  • Sư đoàn Vô Sản 1 của Thiếu tướng Koča Popović
  • Sư đoàn Vô Sản 2 của Thiếu tướng Peko Dapčević
  • Sư đoàn Xung kích 3 của các đại tá Radovan Vukanović và Sava Kovacevic
  • Sư đoàn Banijska 7 của đại tá Pavle Jaksić
  • Sư đoàn Dalmatia 1
  • Lữ đoàn du kích Đông Bosnia 6
  • Lữ đoàn du kích Majevička 15
  • Tiểu đoàn 3 thuộc Lữ đoàn Vô Sản 4
  • Tiểu đoàn 2 và Tiểu đoàn 4 thuộc Lữ đoàn Montenegro 5

Quân Chetnick:Gồm 7 đội do Pavle Djurisić chỉ huy thân Ý nhưng vẫn là đối tượng giải giới của quân Đức.

Sư đoàn Vô Sản 2 hành quân

Với ưu thế đặc biệt lớn về binh lực của Liên quân Đức - Ý - Bulgaria - Ustaše, đây là một trong những chiến dịch càn quét lớn nhất của quân đội phe Trục trong quá trình chiếm đóng Nam Tư và cũng khó khăn nhất của Quân Giải phóng nhân dân Nam Tư kể từ phát động cuộc kháng chiến. Mục tiêu hàng đầu của quân đội Đức Quốc xã trong chiến dịch này là bao vây và tiêu diệt các sư đoàn chủ lực của NOVJ tại vùng biên giới tây bắc Montenegro và Đông Nam Bosnia. Nhiệm vụ giải giới quân Chetnick chỉ là mục tiêu thứ yếu. Vai trò chủ yếu trên chiến trường sẽ do quân Đức và quân Ý bố trí xen kẽ nhau đảm nhận. Các đơn vị Ustaše và Bulgaria chỉ đóng vai trò trợ chiến.[60]

Ngày 14 tháng 5, quân Chetnick bắt đầu bị quân Đức tước khí giới. Thiếu tá Pavle Djurisic bị bắt. Tuy nhiên, Tổng chỉ huy quân Ý tại Nam Tư, tướng Pircio Biroli đã yêu cầu người Đức phải dẫn giải Pavle Djurisic giao cho họ, nếu không người Ý sẽ "dùng vũ lực để đòi lại ông ta". Pircio Biroli cho rằng quân Chetniks là đồng minh tin cậy của người Ý trong việc chống lại các lực lượng cộng sản ở Nam Tư.[61] Tướng Walter fon Stetner, chỉ huy Sư đoàn sơn chiến 1 (Đức) cũng phản đối lệnh bắt giữ quân Chetniks vì thực tế cuộc chiến ở Nam Tư cho thấy, mặc dù theo chủ nghĩa dân tộc nhưng quân Chetniks cùng chung mục tiêu chống cộng với người Đức và người Ý.[62] Tuy nhiên, theo lệnh trực tiếp tư Adolf Hitler, 2.400 quân Chetniks vẫn bị tước khí giới. 800 quân được sử dụng làm các công việc thổ mộc. Số còn lại bị giam giữ. Cuối năm 1943, khi chính quyền Mussolini sụp đổ ở Nam Ý, hầu hết số quân Chetniks đều được người Đức phóng thích.

Du kích Nam Tư rút quân lên núi

Ngày 15 tháng 5, cuộc chạm súng đầu tiên nổ ra ở phía bắc tại Cajnice và Foca trên hướng tấn công của Sư đoàn lê dương 369. Ở phía đông, Sư đoàn sơn chiến 1 (Đức) cũng mở các cuộc tấn công vào Brodarevo và Mojkovac. Bộ chỉ huy tối cao Quân Giải phóng nhấn dân Nam Tư nhận định rằng khu vực phòng thủ Foca là cái chốt để ngăn chặn những lực lượng lớn của quân Đức khép vòng vây, đồng thời, mở ra cánh cửa liên lạc với miền Đông Bosnia. Vì vậy, Sư đoàn Vô Sản 1 nhận được mệnh lệnh phải giữ bằng được Foca. Từ ngày 21 đến ngày 25 tháng 5, Sư đoàn lê dương 369 (Đức) bị Sư đoàn Vô Sản 1 (Nam Tư) chặn lại. Các trung đoàn sơn chiến 7 và 13 Đức đã bị thiệt hại đáng kể trong các trận đánh ngày 21 và ngày 24 tháng 5.[63]

Bất chấp thiệt hại, quân Đức tung Sư đoàn bộ binh 118 vào trận và tiếp tục tấn công. Ngày 25 tháng 5, Sư đoàn bộ binh 118 (Đức) chiếm được Gradca. Bộ chỉ huy tối cao NOVJ phải chuyển Sở chỉ huy sang tả ngạn sông Tara. Ngày 26 tháng 5, Sư đoàn bộ binh 118 (Đức) tiếp tục tấn công sang phía tây, đánh chiếm làng Piva. 738 quân du kích của Trung đoàn 22 bị quân Đức bao vây tại Vučevo, một cao nguyên nhỏ phía tây Piva và đứt liên lạc với Sở chỉ huy NOVJ. Tuy nhiên, do địa hình rừng núi nên Sở chỉ huy NOVJ đã điều một tiểu đoàn luồn rừng đi vòng qua Anaker và nối được liên lạc với Trung đoàn 22. Ngày 29 tháng 5, hai tiểu đoàn của Sư đoàn Vô Sản 2 đã có một trận kịch chiến với quân của Sư đoàn 7 SS (Đức) tại Anaker, phối hợp với Sư đoàn Vô Sản 1 chặn được Sư đoàn bộ binh 118 (Đức) trên đèo Piva, củng cố được thế phòng ngự của NOVJ tại khu vực Sutjeska.[64]

Josip Broz Tito (bị thương ở tay trái) trong Chiến dịch Sutjeska, phía sau ông là Ivan Ribar

Từ ngày 18 tháng 5, Sư đoàn 7 SS (Đức) và Sư đoàn "Ferrari" (Ý) tổ chức tấn công vào Savnik, Zabljak và Mratinje. Sư đoàn Dalmatia 1 đã bảo vệ thành công thị trấn Pete, ngăn chặn được cánh trái của Sư đoàn 7 SS. Phát hiện quân Đức tiếp tục tung lực lượng dự bị vào trận, từ ngày 31 tháng 5 đến ngày 5 tháng 6, Bộ chỉ huy tối cao NOVJ chuyển đến khu vực Mratinje, đồng thời điều Sư đoàn Montenegro 4, Sư đoàn Krajina 7 và Sư đoàn Herzegovina 10 tiến ra Bioč và Piva chặn kích. NOVJ bắt đầu tổ chức phòng thủ có chiều sâu tại các khu vực Sutjeska và Gatačko để bảo vệ cho Sở chỉ huy NOVJ tại Mratinje. Nhóm thứ nhất do Milovan Djilas chỉ huy gồm các sư đoàn Vo Sản 1, 2 và Sư đoàn Banijska 7 phòng thủ khu vực Тrеčа. Trụ sở của Trung ương KPJ cũng đóng tại đây. Nhóm thứ hai do Sava Kovacevic chỉ huy gồm Sư đoàn Xung kích 3 và hai tiểu đoàn cảnh vệ của Tổng hành dinh NOVJ phòng thủ trên sông Tara.

Trong lúc chiến sự đang diễn ra ác liệt, ngày 20 tháng 6, một nhóm nhân viên quân sự Anh đã đổ bộ xuống Đurđevića Tara, gần Srnog Јеzеrа và tìm đường liên lạc với Sở chỉ huy của J. B. Tito. Chỉ huy nhóm là đại úy Bill Stewart, từng làm việc tại Lãnh sự quán Anh tại Zagreb trước chiến tranh, nói thạo tiếng Serbia-Croat và đại úy William Deakin, nguyên giáo sư lịch sử tại Oxford cùng 4 nhân viên quân sự. Đêm 27 rạng ngày 28 tháng 5, nhóm này đã đến được Sở chỉ huy của J. B. Tito. Từ ngày 29 tháng 5, người Anh bắt đầu thả dù tiếp tế vũ khí và đạn dược cho các đơn vị NOVJ. Nhóm nhân viên quân sự Anh cũng yêu cầu London cho máy bay ném bom tập kích các vị trí tập trung quân Đức và quân Ý. Đại úy William Deakin cũng báo tin xác nhận đến London rằng chắc chắn Chetniks đã hợp tác với người Đức và người Ý chống lại du kích Nam Tư. Trước đó, đại úy William Bailey tại Sở chỉ huy của Draza Mihailović đã báo tin cho London về việc Chetniks đã hợp tác với người Ý, việc quân Đức giải giới lực lượng Chetniks và Draza Mihailović phải chạy trốn sang Montenegro.[65]

Mặc dù tỷ lệ thương vong là 1 du kích đổi lấy 4 lính Đức - Ý (hoặc Ustaše) nhưng tính về tỷ lệ thương vong trên quân số tham gia tổn thất của NOVJ là khá nặng với hơn 1.000 người chết, 4.000 thương binh làm quá tải Bệnh viện dã chiến trung ương NOVJ. Riêng Lữ đoàn Dalmatia 2 bị thiệt hại nặng, chỉ trong một ngày đã có 600 người chết. Trên chiến trường, liên quân Đức - Ý đang khép dần vòng vây quanh núi Zelengora. Ngày 9 tháng 6, Josip Broz Tito bị thương vào tay trái trong một trận pháo kích của quân Đức. Phát đạn lạc đó cũng giết chết đại úy Bill Stewart và Duro Vujović, sĩ quan cận vệ của J. B. Tito và làm bị thương một số du kích khác. Tình hình nghiêm trọng buộc Bộ chỉ huy tối cao NOVJ phải có một giải pháp quyết liệt để tránh khỏi bị đối phương bao vây, tiêu diệt. Ngày 10 tháng 6, Bộ chỉ huy tối cao NOVJ họp và quyết định phá vây. Hướng rút sang phía tây lên vùng núi Dinajia đã bị liên quân Đức - Ý bịt chặt trên tuyến sông Neretva. Ở các hướng Đông và Nam, liên quân Đức - Ý có sự trợ giúp của quân đội Bulgaria đang gia tăng sức ép lên 3 sư đoàn du kích đang chiến đấu tại vùng giáp ranh giữ Bosnia và Montenegro. Chiều ngày 11 tháng 6, Bộ chỉ huy tối cao NOVJ quyết định rút quân lên phía bắc, xuyên qua "cửa mở" hẹp tại Tjentište do Sư đoàn Dalmania 1 của Vaso Jovanović vừa đột phá trên con đường từ Foca đi Kalinovik.[66]

Tối 11 tháng 6, các đơn vị NOVJ bắt đầu di chuyển. Ngày 12 tháng 6, trong khi Không quân Đức tiếp tục ném bom bắn phá căn cứ cũ của NOVJ thì các lữ đoàn Đông Bosnia 6 và Majevička 15 đã bắt đầu đột phá qua sông Sutjeska tại làng Rataj. Ngày 12 tháng 6, quân Đức tìm thấy những du kích bị thương phải nằm lại tại thung lũng sông Sutjeska và đã bắn chết tất cả bọn họ. Theo báo cáo của người Đức, sở dĩ quân Đức phải giết họ vì tất cả đang mắc bệnh sốt phát ban.[67] Ngày 13 tháng 6, các sư đoàn Vô Sản 1 và 2 tiếp tục đột phá lên phía bắc. Sư đoàn Xung kích 3 trụ lại cản hậu tại làng Krekov bị thiệt hại nặng. Sư đoàn trưởng Sava Kovacevic tử trận tại Vrbnica, gần Foca khi mới 38 tuổi. Lữ đoàn còn lại của sư đoàn này chuyển thành Lữ đoàn độc lập và nhập vào đoàn quân chủ lực NOVJ đang mở đường máu rút lui. Ngày 14 tháng 6, các lực lượng còn lại của NOVJ và Bộ chỉ huy tối cao NOVJ đã đột phá vượt qua vòng vây của Sư đoàn lê dương 369 (Đức) và tập kết tại vùng núi Rogatica, phía đông Bosnia.[68]

Cuộc tấn công thứ năm của liên quân Đức - Ý đã gây những thiệt hại đáng kể cho NOVJ. Trong số 5 sư đoàn và 2 lữ đoàn tham gia chiến dịch có đến 4 sư đoàn chỉ còn lại 1/2 quân số. Riêng Sư đoàn Xung kích 3 chỉ còn lại 1 lữ đoàn. Tổng số thương vong gồm 7.543 người, kể cả những người chết tại bệnh viện do vết thương và các thương binh bị quân Đức bắn chết tại thung lũng sông Sutjeska. Ngoài ra, trong ngày 7 tháng 6, tại thị trấn Dola gần Piva, Sư đoàn 118 (Đức) đã giết chết 520 thường dân Nam Tư, trong đó có 106 trẻ em. Liên quân Đức - Ý cũng chịu thiệt hại đáng kể với 5.300 thương vong; trong đó có 2.768 lính Đức, hơn 2.000 lính Ý và 411 lính Ustaše. Không có số liệu về thương vong của lính Bulgaria. Ngày 15 tháng 6, quân Đức chấm dứt chiến dịch Schwartz.[69]

Phong trào du kích lan rộng

Bất chấp các cuộc hành quân "trừng phạt" của quân đội Đức Quốc xã, Phát xít Ý và các lực lượng thân Đức, thân Ý ở Nam Tư, phong trào du kích chống phát xít vẫn phát triển tại nước này cả về quy mô và tổ chức. Nòng cốt của phong trào vẫn là Quân giải phóng nhân dân Nam Tư không những không bị tiêu diệt mà còn trưởng thành qua từng trận đánh, từng chiến dịch mặc dù họ cũng hứng chịu những tổn thất không nhỏ. Từ cuối năm 1942 đến cuối năm 1943, đã có 9 Quân đoàn du kích được thành lập gồm hơn 20 sư đoàn và nhiều lữ đoàn, tiểu đoàn độc lập với tổng quân số lên đến 239.000 người.

Ngày 9 tháng 11 năm 1942, Quân đoàn Bosnia 1, quân đoàn chủ lực đầu tiên của NOVJ được thành lập tại Bosnia gồm các sư đoàn Kraina 4, 5 và Lữ đoàn 6 Đông Bosnia do Kosta Nag làm tư lệnh, Osman Karabegović làm chính ủy. Từ ngày 11 tháng 5 năm 1943, đơn vị này được đổi tên thành Quân đoàn Bosnia 3.

Ngày 4 tháng 1 năm 1943, NOVJ thành lập Quân đoàn Croatia 4 từ Sư đoàn Vô Sản 6, Sư đoàn Banijska 7 và Sư đoàn Kordunaška 8 do Ivan Gošnjak làm tư lệnh, Većeslav Holjevac làm chính ủy. Tổng quân số ban đầu có 9.819 người. Quân đoàn đã tham gia các giai đoạn I và giai đoạn II của chiến dịch Weiss.[70]

Áp phích của NOVJ tại Croatia kêu gọi người dân tham gia chiến đấu chống quân chiếm đóng Đức Quốc xã

Trong khi Chiến dịch Schwarz đã diễn biến phức tạp thì ngày 11 tháng 5 năm 1943, tại miền Đông Bosnia, NOVJ đã thành lập thêm Quân đoàn Bosnia 5 trên cơ sở Sư đoàn Kraina 4 của Quân đoàn Bosnia 3 và bổ sung vào biên chế các sư đoàn Kraina 10, 11 và Sư đoàn độc lập 10. Quân đoàn do Slavko Rodic chỉ huy, Velimir Stojnic làm chính ủy. Quân số ban đầu gồm 9.804 người.[71]

Ngày 17 tháng 5 năm 1943, Sư đoàn độc lập 10 được tách ra để nâng cấp thành Quân đoàn Slavonia 6 với sự tham gia của Sư đoàn độc lập 12. Quân đoàn này do Petar Drapšin làm tư lệnh và Otmar Kreačić làm chính ủy. Quân số ban đầu gồm 5.200 người.

Ngày 5 tháng 10 năm 1943, Bộ chỉ huy tối cao NOVJ cũng lúc thành lập 2 quân đoàn dư kích mới. Quân đoàn Vô Sản 1 được hình thành từ Sư đoàn Vô Sản 1 và Sư đoàn Lička 6 do Koča Popovic làm tư lệnh, Mijalko Todorovic làm chính ủy. Quân số ban đầu khoảng 8.000 người. Quân đoàn Xung kích 2 được hình thành từ Sư đoàn Vô Sản 2, Sư đoàn Xung kích 3 và 8 đội du kích từ các lãnh thổ Montenegro, Boka, Herzegovina và Sandzak, do Peko Dapčević làm tư lệnh, Mitar Bakic làm chính ủy. Quân số ban đầu khoảng 8.500 người.[72]

Ngày 7 tháng 12 năm 1943, Quân đoàn Dalmatia 8 được thành lập gồm các sư đoàn bộ binh 9, 19, 20, 26 và Lữ đoàn đổ bộ đường không. Quân số ban đầu 13.049 người do Vicki Krstulović làm tư lệnh, Ivan Kukoć làm chính ủy.

Ngày 22 tháng 12 năm 1943, Quân đoàn Slovenia 9 được thành lập trên cơ sở các sư đoàn bộ inh 30, 31, 32, các đội du kích Brisk-Beneš, Južnoprimorski, Gorenjski và Zapadnokoruš và tiểu đoàn du kích Ý "Triestino d'asalto". Quân số ban đầu 6.800 người. Quân đoàn do Lado Ambrožič chỉ huy và Dusan Kveder làm chính ủy.

Ngoài các quân đoàn chính quy, tại nhiều vùng lãnh thổ của Nam Tư, các đội du kích nhỏ lẻ đã được tập hợp lại thành các sư đoàn. Trong năm 1943, có thêm 8 sư đoàn du kích được NOVJ thành lập:

Ngày 13 tháng 4 năm 1943, 3 lữ đoàn du kích Slovenia 1, 2 và 3 đã tập hợp lại thành Sư đoàn Slovenia 14 do Mirko Bračič chỉ huy, Dobovičnik làm chính ủy. Quân số ban đầu khoảng 2.400 người. Cùng ngày, các lữ đoàn du kích Slovenia 4, 5, 6 cũng hợp lại thành Sư đoàn Slovenia 15 do Predrag Jeftić chỉ huy, Viktor Avbelj làm chính ủy. Quân số ban đầu khoảng 1.400 người.

Các khu giải phóng của du kích của người Serb tại lãnh thổ phía đông Croatia cuối năm 1942, đầu năm 1943

Cuối tháng 4 năm 1943, tại thị trấn Brinje, các lữ đoàn du kích 6, 14 và các nhóm du kích lẻ tại khu vực Goransk đã tập hợp lại thành Sư đoàn Goransko 13 dưới sự chỉ huy của Veljko Kovacevic và Joseph Skočilić. Quân số ban đầu khoảng 5.600 người.

Ngày 2 tháng 7, tại Đông Bosnia, NOVJ đã thành lập Sư đoàn Vojvodina 16 trên cơ sở các lữ đoàn du kích Vojvodina 1, 2 và 3 do Danilo Lekic làm tư lệnh kiêm chính ủy. Quân số ban đầu 1.550 người. Cùng ngày, Sư đoàn du kích Đông Bosnia 17 cũng được thành lập từ Lữ đoàn Vô sản 6, Lữ đoàn Majevička 15 và Đội du kích độc lập Majevička, do Gligo Mandic chỉ huy, Branko Petricevic làm chính ủy, quân số ban đầu khoảng 3.000 người.

Ngày 14 tháng 9 năm 1943, trên cơ sở các lữ đoàn du kích Slovenia 8, 9 và 10, Bộ chỉ huy tối cao NOVJ thành lập Sư đoàn Slovenia 18 do Rado Pekhaček chỉ huy, Janez Khribar Tone làm chính ủy, quân số ban đầu 3.350 người.

Ngày 8 tháng 10 năm 1943, tại làng Biovičino, Sư đoàn du kích Dalmatia 18 ra đời trên cơ sở các lữ đoàn du kích Dalmatia 5, 6 và 7; do Milan Kuprešanin làm tư lệnh, Petar Babic làm chính ủy, quân số ban đầu 3559 người.

Ngày 10 tháng 12 năm 1943, tại làng Vrdovo trên núi Dinara, Sư đoàn du kích Dalmatia 20 được thành lập gồm các lữ đoàn du kích Dalmatia 8, 9 và 10 gồm 3.110 người, do Velimir Knezevic chỉ huy, Zivko Zivkovic làm chính ủy.

Ngoài các lực lượng trên bộ, NOVJ bắt đầu xây dựng Hải quân du kích và Không quân du kích. Ngày 19 tháng 9 năm 1942, tại Dalmatia, những đơn vị lính thủy đầu tiên của NOVJ ra đời. Ban đầu, họ sử dụng các tàu đánh cá có vũ trang. Sau khi phát xít Ý bị thua trận ở miền Nam bán đảo Apenin, NOVJ thu giữ nhiều tàu tuần duyên của Hải quân phát xít Ý để tự vũ trang cho mình.

Ý rút khỏi chiến tranh

Đêm 9 tháng 7 năm 1943, quân đồng minh Anh - Mỹ triển khai kế hoạch "Husky" đổ bộ lên đảo Sicilia, bắt đầu Chiến dịch nước Ý. Ngày 25 tháng 7, tại Roma, vua Ý Victor Emmanuel III ra chiếu chỉ phế truất Benito Mussolini khỏi chức vụ thủ tướng và giam giữ ông này tại khách sạn "Albergo-Rifudzhio" trong dãy núi Apennine. Thống chế Pietro Badoglio được gọi ra lập chính phủ mới. Ngày 3 tháng 9, chính phủ Badoglio đã ký kết hiệp ước đình chiến với quân đồng minh tại Lisbon, được coi như một hiệp ước đầu hàng không điều kiện. Nước Ý rút ra khỏi cuộc chiến tranh. Mặc dù ngày 12 tháng 9 năm 1943, các đơn vị biệt kích Đức của tướng SS Otto Skorzeny đã giải thoát cho Mussolini, đưa về Milan và lập ra Chính phủ Cộng hòa xã hội Ý ở phía bắc tuyến Gothic nhưng Mussolini đã không còn quân đội trong tay. Ngoài nước Đức Quốc xã, chính phủ của ông ta không được một nước nào công nhận, còn Cụm tập đoàn quân C của quân đội Đức Quốc xã do thống chế Albert Kesselring chỉ huy thì chiếm đóng miền Bắc Ý và tiếp tục chống lại quân đội đồng minh Anh - Mỹ.

Tình hình ở Nam Tư cũng có những thay đổi nhanh chóng. Tháng 8 năm 1943, Quân đội Đức Quốc xã tiến hành giải giới các lực lượng Ý theo chính phủ của Pietro Badoglio, kể cả hải quân Ý còn đang kẹt lại tại các cảng của Nam Tư ven biển Adriatic và trục xuất quân đội này khỏi lãnh thổ Nam Tư. Ngày 12 tháng 8, Tổng hành dinh quân đội Đức Quốc xã thành lập Cụm tập đoàn quân F do thống chế Maximilian von Weichs chỉ huy gồm nòng cốt là Tập đoàn quân xe tăng 2 và các đơn vị Đức đang chiếm đóng Nam Tư, Hungary. Cụm tập đoàn quân E do tướng Alexander Lohr chỉ huy đang chiếm đóng Hy Lạp, Tập đoàn quân 2 Bulgaria đang chiếm đóng Macedonia và Tập đoàn quân Serbia (gồm quân Ustaše và quân Chính phủ bù nhìn Serbia) cũng được đặt thuộc quyền Maximilian von Weichs.

Trong khi Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) đang phải tập trung đối phó tại mặt trận Ukraina thì lợi dụng tình hình lộn xộn này, NOVJ đã nhanh tay tiến quân tước vũ khí của quân Ý, chiếm lại các vùng do quân phát xít Ý chiếm đóng trước đó ở miền Tây Croatia, Tây Bosnia, vùng biên giới tiếp giáp với Albania và các vùng ven biển Adriatic, bao gồm cả Montenegro. Vùng giải phóng do NOVJ kiểm soát đã rộng ra chiếm một nửa lãnh thổ Nam Tư. Quân Đức, quân Hungary, Bulgaria và các lực lượng Nam Tư thân Đức chỉ còn chiếm giữ được lãnh thổ phía đông nam Tư và xứ Macedonia. Đến cuối năm 1943, NOVJ đã có sư đoàn xe tăng chính quy đầu tiên trên cơ sở 56 xe tăng Ý vừa chiếm được. Ngày 18 tháng 11 năm 1943, Hải quân du kích Nam Tư chính thức được thành lập gồm các tàu tuần duyên chiếm được của hải quân Ý và các tàu đánh cá được vũ trang bằng súng cối và súng máy hạng nặng. Ngày 2 tháng 10 năm 1943, một căn cứ của NOVJ được mở tại Bari (Ý) đang do quân Anh, Mỹ và Liên Xô cùng sử dụng để tiếp nhận và vận chuyển hàng viện trợ của các nước đồng minh cho NOVJ bằng đường biển và đường không. Ngày 14 tháng 10, căn cứ không quân lớn đầu tiên của NOVJ cũng được thiết lập tại Livno.

Lo ngại trước sự phát triển của NOVJ, Adolf Hitler ra lệnh cho thống chế Maximilian von Weichs dùng mọi biện pháp có thể để ổn định tình hình ở phía tây Balkan và Hy Lạp. Từ tháng 10 năm 1943, Cụm tập đoàn quân F (Đức) đã huy động 5 sư đoàn bộ binh Đức, Bulgaria, Hungary, quân Utashi phối hợp với Hải đoàn Adriatic (Đức) tiến hành "Chiến dịch Tháng Mười" (thường được gọi là cuộc tấn công thứ sáu của quân đội Đức Quốc xã) nhằm tái chiếm bờ biển miền tây nam Tư, đặc biệt là các bến cảng và tiêu diệt hải quân của NOVJ. Từ ngày 1 đến ngày 9 tháng 10, quân Đức đã chiếm lại các cảng Littoral ở Slovenia, Istria, Gorski và Split ở Croatia. Ngày 15 tháng 10, quân Đức tiếp tục đánh chiếm đảo Sibenik và bán đảo Peljesac. Hải quân NOVJ phải di chuyển đến các đảo Hvar và Brac, kéo theo các lữ đoàn Dalmatia 1, 9 và 11 cùng 4 đội du kích và hàng nghìn dân tị nạn, tổng cộng lên đến 15.000 người. Từ tháng 11 đến đầu tháng 12 năm 1943, quân Đức tiếp tục chiếm các đảo Drevnik lớn, Drevnik nhỏ và đảo Korcula, đổ bộ càn quét các đảo Curicta (Krk), Cres và Lošinj ở ven biển phía tây Slovenia. Hải quân NOVJ một lần nữa phải rời căn cứ đến đảo Vis. Từ ngày 20 đến ngày 26 tháng 12, Hải quân NOVJ, các lữ đoàn du kích Dalmatia được sự hỗ trợ của Hải quân Anh đã tiến hành bốn chiến dịch lớn tại vòng cung đảo Dugi - Kornaty - Zhirji - Vis - Lastovo, đánh lui Hải đoàn Adriatic (Đức), bảo vệ thành công căn cứ chính tại đảo Vis, biến nó thành một nơi vừa là pháo đài, vừa là hải cảng liên lạc với căn cứ Bari và các căn cứ hải quân khác của đồng minh ở phía đông Địa Trung Hải.

Sự phát triển của phong trào du kích ở Nam Tư đã tạo ra ảnh hưởng rất có lợi cho địa vị của Nam Tư trên trường quốc tế. Tại Hội nghị Tam cường họp từ ngày 28 tháng 11 đến ngày 1 tháng 12 tại Tehran (Iran), các nước đồng minh Anh Hoa Kỳ và Liên Xô đã thừa nhận lực lượng NOVJ là đồng minh chống phát xít và các nước đồng minh có nhiệm vụ giúp đỡ các lực lượng này, cung cấp cho họ vũ khí, đạn dược, lương thực, quân dụng và giúp đỡ họ về tác chiến trong các chiến dịch chống quân chiếm đóng Đức Quốc xã. Theo thỏa thuận tại Tehran 1943 và được sự chấp thuận của Tổng tư lệnh Josip Broz Tito, ngày 23 tháng 2 năm 1944, phái đoàn cố vấn quân sự Liên Xô do trung tướng Nikolai Vasilyevich Korneev đã bay đến Livno và quân đội Liên Xô bắt đầu phối hợp tác chiến trực tiếp với Quân giải phóng nhân dân Nam Tư trên chiến trường.

Hội nghị toàn quốc AVNOJ lần thứ hai

Tuyên bố của Hội nghị toàn quốc AVNOJ lần thứ hai, 29 tháng 11 năm 1943

Hai ngày trước khi khai mạc hội nghị, một bi kịch đã xảy ra với những người yêu nước Nam Tư. Luật sư Ivo Lola Ribar, con trai của Chủ tịch AVNOJ, tiến sĩ Ivan Ribar, nhà lãnh đạo Đoàn Thanh niên Cộng sản Nam Tư, thành viên của Bộ chỉ huy tối cao Quân giải phóng nhân dân Nam Tư đã bị sát hại. Được bổ nhiệm là Trưởng phái bộ quân sự Nam Tư tại Sở chỉ huy quân đồng minh tại mặt trận Bắc Phi và Địa Trung Hải, ngày 27 tháng 11, Ivo Lola Ribar lên máy bay tại sân bay Glamoč để đi Cairo. Vào lúc máy bay còn đang trên đường lăn, các máy bay cường kích Đức bất ngờ kéo đến oanh tạc sân bay Glamoč. Một quả bom đã rơi trúng máy bay của Ivo Lola Ribar, phá hủy máy bay và giết chết Ivo Lola Ribar cùng phi hành đoàn. Trước đó gần hai tháng, ngày 3 tháng 10, người con trai thứ hai của Ivan Ribar là Jurica Ribar cũng đã bỏ mạng trong một trận chiến đấu chống lại quân Chetniks ở Kolasin. Vì đang bận chỉ huy quân đội tại Livno, Nguyên soái Josip Broz Tito đã gửi điện chia buồn đến Ivan Ribar.

Ngày 29 tháng 11 năm 1943, Hiệp hội giải phóng dân tộc Nam Tư chống phát xít (AVNOJ) tiến hành hội nghị lần thứ hai tại Jajce, miền trung Bosnia. Khác với hội nghị lần đầu, hội nghị lần thứ hai có sự tham gia đầy đủ của 142 đại biểu đến từ các vùng lãnh thổ của Nam Tư, thuộc các đảng phái yêu nước khác nhau gồm Đảng Cộng sản Nam Tư, Đảng Nông dân Croatia, Đảng Nông dân Serbia, Cộng đồng Hồi giáo Nam Tư, Đảng Công giáo xã hội Nam Tư, Đảng Cấp tiến, Đảng Dân chủ độc lập, 2 đại biểu của Ủy ban Croatia 1915 tại London và các đại biểu của Quân giải phóng nhân dân Nam Tư. Các đại biểu từ Montenegro đã phải phải đi bộ vượt qua hơn 300 dặm đường với vũ khí trong tay để đến dự hội nghị đúng thời điểm khai mạc. Hội nghị được bảo vệ nghiêm ngặt bởi các sĩ quan và binh sĩ lực lượng cảnh vệ thuộc Tổng hành dinh NOVJ đề phòng biệt kích Đức đặt bom phá hoại. Các khẩu đội pháo cao xạ và nhiều súng máy phòng không được triển khai xung quanh Jajce đề phòng không quân Đức tập kích.[73]

19 giờ ngày 29 tháng 11, Ivan Ribar khai mạc hội nghị và đọc báo cáo của Hiệp hội. 21 giờ, nguyên soái Josip Broz Tito trình bày bài phát biểu của ông. Bài diễn văn có đoạn viết:

Sự sáng lập Hiệp hội giải phóng dân tộc Nam Tư chống phát xít là một trong những thành tựu vĩ đại nhất của chúng ta vào thời điểm cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc đang lên đến cao trào. Hiệp hội giống như một cơ quan lập pháp mà dựa trên nền tảng đó nhằm xây dựng một hệ thống pháp luật mới và công bằng tại Nam Tư, đặt cơ sở của một nền pháp chế dân chủ chân chính và bình đẳng... Cuộc đấu tranh của nhân dân và các lực lượng du kích với những thành công tuyệt vời mà họ đã đạt được trên chiến trường đã làm cho toàn thế giới tiến bộ biết đến và cảm thông với chúng ta, ủng hộ chúng ta; đã tạo ra tất cả các điều kiện để hướng tới một Liên bang Dân Chủ Nam Tư của những con người luôn hướng tới nguyện vọng tự do dân chủ đích thực
— Josip Broz Tito. Trích diễn văn đọc tại Hội nghị toàn quốc AVNOJ ngày 29/11/1943[74]

Nửa đên 29 rạng ngày 30 tháng 11, Hội nghị toàn quốc lần thứ hai của AVNOJ ra nghị quyết với 4 nội dung chính gồm có:[75]

1- Hiệp hội giải phóng dân tộc Nam Tư chống phát xít sẽ bầu ra các đại biểu vào các cơ quan lập pháp và hành pháp của Nam Tư như Hội đồng nhân dân tối cao, Ủy ban Giải phóng dân tộc Nam Tư ở trung ương (Ủy ban quốc gia) có vai trò như một chíh phủ, thông qua Ủy ban Giải phóng dân tộc ở các lãnh thổ thành viên, các tỉnh, các huyện để điều hành bộ máy hành chính.2- Khởi tạo một Liên bang dân chủ Nam Tư dựa trên quyền dân tộc tự quyết. Dự kiến sáu thành viên bình đẳng của liên bang gồm có: Serbia, Croatia, Slovenia, Macedonia, Montenegro và Bosnia Herzegovina3-Hủy bỏ tất cả các phán quyết, các hiệp ước, các quyết định và các văn bản pháp lý của Chính phủ Nam Tư lưu vong4-Cấm vua Peter II Karadjordjevic trở về nước cho đến khi có kết quả của cuộc trưng cầu dân ý quyết định mô hình chính thể tương lai của đất nước(chế độ quân chủ hoặc chế độ cộng hòa).5-Quyền của các dân tộc thiểu số tại Nam Tư được bảo đảm trên toàn quốc.Quyết định ngày 30 tháng 11 năm 1943 của các đại biểu dự Hội nghị toàn quốc AVNOJ lần thứ 2 suy tôn Josip Broz Tito là Nguyên soái của Nam Tư

Sau khi suy tôn Josip Broz Tito là Nguyên soái của Nam Tư, AVNOJ đã bầu Ủy ban Giải phóng dân tộc trung ương Nam Tư (NKOJ) gồm Chủ tịch, 3 Phó chủ tịch và 12 thành viên:[76]

  • Chủ tịch kiêm Ủy viên phụ trách quốc phòng: Nguyên soái Josip Broz Tito
  • Phó chủ tịch thứ nhất: Edvard Kardelj
  • Phó chủ tịch thứ hai: Vladislav Ribnikar
  • Phó chủ tịch thứ ba: Bozidar Magovac
  • Ủy viên phụ trách Ngoại giao: Tiến sĩ Joseph Smodlaka
  • Ủy viên phụ trách Nội vụ: Vlada Zecevic
  • Ủy viên phụ trách Giáo dục: Edvard Kocbek
  • Ủy viên phụ trách Kinh tế quốc dân: Tiến sĩ Ivan Milutinovic
  • Ủy viên phụ trách Tài chính: Dusan Sernec
  • Ủy viên phụ trách Giao thông vận tải: Sreten Žujović
  • Ủy viên phụ trách Y tế cộng đồng: Tiến sĩ Milivoj Jambrišak
  • Ủy viên phụ trách các vấn đề Xã hội: Tiến sĩ Anton Kržišnik
  • Ủy viên phụ trách Tư pháp: Frane Frol
  • Ủy viên phụ trách Lương thực, thực phẩm: Mile Peruničić
  • Ủy viên phụ trách Xây dựng: Tiến sĩ Rade Pribicevic
  • Ủy viên phụ trách Tài nguyên rừng và khoáng sản: Tiến sĩ Sulaiman Filipović

Tiếp theo, ANVOJ đã bầu lại đoàn chủ tịch ANVOJ gồm có:

  • Chủ tịch: Tiến sĩ Ivan Ribar
  • Các phó chủ tịch: Antun Augustinčić, Dimitar Vlahov, Marko Vujačić, Moša Pijade và Josip Rus
  • Các bí thư: Rodoljub Čolaković và Radonja Golubović
  • Các thành viên: Jakob Rade Avšič, Metodije Andonov Čento, Mihailo Apostolski, Spasenija Cana Babović, Tiến sĩ Vladimir Bakarić, France Bevk, Milan Belovuković, Josip Broz Tito, Tiến sĩ Vaso Butozan, Josip Vidmar, Sreten Vukosavljević, Ante Vrkljan, Tiến sĩ Pavle Gregorić, Maca Gržetić, Nikola Grulović, Milovan Đilas, Sreten Žujović, Vlada Zečević, Josip Jeras, Osman Karabegović, Jevstatije Karamantijević, Edvard Kardelj, Tiến sĩ Vojislav Kecmanović, Boris Kidrič, Ivan Stevo Krajačić, Vicko Krstulović, Pavao Krce, Husnija Kurt, Filip Lakuš, Voja Leković, Tiến sĩ Ljubo Leontić, Franc Leskošek, Božidar Magovac, Tiến sĩ Ante Mandić, Moma Marković, Tiến sĩ Metod Mikuž, Tiến sĩ Niko Miljanić, Vladimir Nazor, Tiến sĩ Blagoje Nešković, Stanko Opačić Ćanica, Nikola Petrović, Vlado Pop-Tomov, Koča Popović, Aleksandar Preka, Tiến sĩ Rade Pribićević, Duro Pucar Stari, Aleksandar Ranković, Vladislav Ribnikar, Tiến sĩ Josip Smodlaka, Tiến sĩ Zlatan Sremec, Petar Stambolić, Luka Stević, Mehmed Sudžuk, Tone Fajfar, Frane Frol và Andrija Hebrang.

Lúc đầu, quyết định AVNOJ vấp phải sự phản đối của Thủ tướng Anh Winston Churchill. Chính phủ Anh coi quyết định của AVNOJ là độc đoán, cản trở sự quay lại của nhà vua Nam Tư có liên quan đến Anh. Đối với Liên Xô, Nam Tư cũng từ chối thông báo cho Liên Xô biết về cuộc họp sắp tới và về những gì người Nam Tư dự kiến. Tuy nhiên, một bức điện thông báo đã được gửi đi Moskva ngay lập tức sau khi khi phiên họp cuối cùng của AVNOJ kết thúc, đặt I. V. Stalin trước một việc đã rồi. Hành động độc lập của những người Nam Tư yêu nước đã buộc các nước lớn là đồng minh chống phát xít đều phải cố gắng tranh thủ họ. Tháng 12 năm 1943, người Anh chấm dứt hẳn việc cung cấp vũ khí cho quân Chetniks và bắt đầu rót vũ khí cho NOVJ. Người Mỹ thì chỉ giữ mối quan hệ hạn chế với người của Draza Mihajlovic để những người này hỗ trợ cho các phi công Mỹ nếu họ bị không quân Đức bắn rơi ở Nam Tư. Tháng 2 năm 1943, I. V. Stalin cử phái bộ quân sự của Liên Xô đến làm việc tại Sở chỉ huy NOVJ.[77]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Chiến_tranh_nhân_dân_giải_phóng_Nam_Tư http://www.bmlv.gv.at/omz/ausgaben/artikel.php?id=... http://www.novosarajevo.ba/stream/press/index.php?... http://www.radiosarajevo.ba/novost/68603/dan-repub... http://komunisti.50webs.com/centartito21.html http://macedonia-history.blogspot.com/2006/10/1941... http://www.feldgrau.com/stats.html http://books.google.com/books?id=R8d2409V9tEC&pg=P... http://books.google.com/books?id=da6acnbbEpAC&lpg=... http://www.imdb.com/title/tt0085713/ http://www.ingentaconnect.com/content/routledg/rmi...